Giá trị tích lũy suốt chục năm
Quy mô vốn 20 tỷ USD (tương ứng khoảng 450.000 tỷ đồng) dường như trở thành thử thách lớn với các ngân hàng Việt Nam khi thời hạn áp dụng chuẩn Basel II được ấn định từ năm 2020 cùng với việc và ngay sau đó khủng hoảng đại dịch COVID-19 ập tới.
Thử thách lớn mà Fitch dự tính còn kéo dài cho đến nay. Dữ liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải tách thành 2 nhóm, gồm nhóm ngân hàng thương mại (NHTM) đã đáp ứng đủ vốn theo Basel II (theo Thông tư 41) và nhóm chưa đáp ứng được.
Dù vậy, phần lớn các NHTM Việt Nam đã vượt qua thử thách này. Với khoảng 450.000 tỷ đồng tại thời điểm Fitch ra báo cáo (2018), tổng quy mô vốn tự có của toàn hệ thống mới chỉ quanh 800.000 tỷ đồng, đến nay, cập nhật tại thời điểm 31/3/2023 đã đạt gần 1,6 triệu tỷ đồng với riêng nhóm áp dụng Thông tư 41.
Quy mô vốn tăng gấp đôi sau 5 năm cho thấy sức tăng trưởng mạnh mẽ của ngân hàng Việt, nhất là ở khối NHTMCP tư nhân. Nguồn lực này đến từ nội lực của các thành viên, nhưng có sự phân hóa rất sâu sắc.
Trước thềm báo cáo của Fitch, cuối năm 2017 đầu 2018, Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM (HDBank) tạo một dấu mốc quan trọng trong hệ thống: Thương vụ IPO thành công với quy mô 300 triệu USD lớn thứ 2 trong lịch sử; thương vụ lớn nhất khi đó thuộc về Vietcombank cách cả chục năm trước (vào năm 2007).
Dấu mốc của HDBank là quan trọng vì đã đánh dấu một dòng chảy lớn như loạt thương vụ IPO của các ngân hàng Việt đến sau đó, nối tiếp ở Techcombank, rồi Vietcombank, BIDV… Loạt thương vụ này vừa huy động thêm vốn vừa mang lại giá trị thặng dư lớn, tạo một cấu phần cho yêu cầu bổ sung nguồn vốn đáp ứng Basel II.
Trực tiếp và lớn nhất là quá trình tăng trưởng lợi nhuận mạnh mẽ của hệ thống đã thúc đẩy chuỗi tăng vốn điều lệ ấn tượng trong 5 năm qua, tính từ thời điểm Fitch tính toán nói trên. Lợi nhuận được chuyển tiếp vào sức vốn theo chính sách cổ tức mà NHNN định hướng và xét duyệt.
Nếu những giai đoạn trước đây, lợi nhuận của các ngân hàng bị phân tán qua chính sách trả cổ tức bằng tiền mặt thì suốt chục năm qua, NHNN yêu cầu chủ yếu lợi nhuận chỉ được trả bằng cổ phiếu, qua đó trực tiếp tích lũy và gia tăng sức vốn.
Chính sách cổ tức đó có thể chưa đáp ứng nguyện vọng của một bộ phận nhà đầu tư và cổ đông khi họ muốn tiền mặt nhưng đã giúp hệ thống tích lũy được nguồn lực lớn, giá trị lớn để vươn tầm quy mô nội lực, đạt Basel II và cấp độ cao hơn nữa.
Khi đạt được chuẩn này, NHNN ghi nhận và cho phép một số ngân hàng được trả cổ tức bằng tiền mặt như vừa qua tại HDBank, VIB, MB…
Kiểm định sức mạnh qua sóng gió
Khi các NHTM đầu tiên của Việt Nam đạt Basel II, TS. Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia tài chính từng đánh giá đó là một tin vui đối với người gửi tiền bởi họ có thể chắc chắn rằng đây là ngân hàng có mức độ tín nhiệm cao, mức độ an toàn vốn tốt, đã được một tiêu chuẩn quốc tế công nhận.
Hay theo cách diễn giải của một lãnh đạo NHTM khi trả lời tại hội thảo chuyên đề của Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội nhiều năm trước rằng "có bộ đồ bảo hộ bền chắc và dày dặn, bạn sẽ chống chịu tốt hơn khi ngã hoặc chịu va đập".
Một cuộc kiểm định quy mô lớn đến ngay khi các ngân hàng vừa đạt Basel II. Cuộc khủng hoảng đại dịch COVID-19 ập tới, ảnh hưởng sâu rộng và kéo dài. Bên cạnh đó, những phát sinh có ảnh hưởng lớn trên thị trường trái phiếu, biến động lãi suất và tỉ giá trong năm 2022 tạo những thử thách nối tiếp… Thế nhưng đa số các NHTM Việt Nam tiếp tục khẳng định sức bền và sức mạnh trong kết quả kinh doanh cũng như hướng đến cấp độ mới- Basel III.
Ngày 24/7/2023, HDBank công bố đã hoàn tất triển khai toàn diện Basel III Reforms. Hiện một số NHTM Việt Nam cũng đã bắt đầu áp dụng tiêu chuẩn của bộ chuẩn mực này, hướng đến việc triển khai toàn diện.
Basel III chưa phải là cấp độ yêu cầu phải đáp ứng tại Việt Nam như với Basel II được quy định trong Thông tư 41 nhưng đây là mục tiêu tự thân mà các NHTM có đủ năng lực chủ động và tiên phong thực hiện. Chuẩn mực quản trị rủi ro với Basel III giúp các ngân hàng nâng cao năng lực vốn, kiểm tra sức chịu đựng trong những tình huống xấu nhất và quản lý tốt hơn rủi ro thanh khoản.
Ấn tượng hơn, một số ngân hàng Việt đã tiến tới cấp độ Basel III toàn diện trong điều kiện và bối cảnh không thuận lợi, khi vừa trải qua sóng gió từ COVID-19, tác động từ những bất ổn trên thị trường toàn cầu và cả những khó khăn nội tại của thị trường trong nước.
Chính điều kiện và bối cảnh bất lợi đó càng làm nổi bật thành quả, nỗ lực của các ngân hàng Việt trong mắt nhà đầu tư cũng như tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế. Vì thế, Basel III hẳn cũng là một điểm cộng để NHNN ghi nhận khi xem xét giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hằng năm cùng chính sách cổ tức thuận lợi hơn cho cổ đông.
Quỳnh Anh